Chuyện ít biết về người đầu tiên mang đàn hương – "vương mộc" của Ấn Độ về Việt Nam

Tại Việt Nam, cây đàn hương được các nhà khoa học nghiên cứu từ năm 2005 nhưng phải đến năm 2014 mới được triển khai, nhân giống thành công. Trong đó, Tiến sĩ Vũ Thoại – Chủ tịch Hội đồng khoa học Viện Nghiên cứu cây đàn hương và thực vật quý hiếm, chính là người đầu tiên đưa đàn hương từ Ấn Độ về Việt Nam.

Sinh năm 1976, tốt nghiệp ĐH Quốc gia Hà Nội, chuyên ngành tiếng Anh nhưng Ts Vũ Thoại (Chủ tịch Viện nghiên cứu đàn hương và thực vật quý hiếm) lại có niềm đam mê đặc biệt với nông nghiệp nhất là các loại cây gỗ, dược liệu quý hiếm. Anh chính là người Việt Nam đầu tiên, mang cây đàn hương – loại cây vương mộc của Ấn Độ về Việt Nam.

Hành trình mang đàn hương từ Ấn Độ về Việt Nam

Năm 2006 khi còn là nghiên cứu sinh tại Ấn Độ, Ts Vũ Thoại có cơ hội được gặp cố Phó thủ tướng Nguyễn Công Tạn khi ông có chuyến thăm quốc gia này. Lần đó, vị Phó thủ tướng đã dành riêng một buổi trò chuyện với sinh viên Việt Nam, ông đặc biệt dặn dò phải nghiên cứu, kết nối để đưa bằng được cây đàn hương quý hiếm về nước.

Theo Ts Vũ Thoại, tại Ấn Độ, đàn hương được xem như báu vật, vua của các loại cây bởi giá trị kinh tế đắt đỏ mà chúng mang lại. Tinh dầu của loài cây này được ví như “giọt vàng” với giá khoảng 4.500USD/kg.

Một cây đàn hương 40 năm tuổi có giá cả tỷ đồng, thậm chí với những cây cổ thụ có thể được trả giá lên tới cả trăm tỷ. Người dân Ấn Độ coi đây là “vương mộc”, là tài sản quốc gia được bảo vệ nghiêm ngặt. Dù có giá trị kinh tế cao, song không phải quốc gia nào cũng có điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu phù hợp để trồng và phát triển đàn hương.

“Trước đó, nhiều chuyên gia Việt Nam cũng đã dành công sức, nghiên cứu gieo hạt giống cây này nhưng không thành công. Ngay tại quê hương của chúng là Ấn Độ, ở điều kiện tự nhiên, chỉ 5-10% số hạt cây đàn hương được gieo là nảy mầm”, Ts Vũ Thoại nói.

Cuộc gặp đặc biệt với cố Phó thủ tướng Nguyễn Công Tạn khi đó, đã khiến Ts Vũ Thoại không khỏi trăn trở. Anh quyết định dành thời gian, nghiên cứu tìm hiểu đặc tính của loài cây quý này. Bởi nếu đưa được đàn hương về Việt Nam, cây có thể góp phần lớn vào việc thay đổi giá trị nền nông nghiệp nước nhà.

Hàng ngày, ngoài thời gian đến giảng đường, Ts Vũ Thoại tìm đến các viện nghiên cứu, gặp các chuyên gia nông nghiệp của Ấn Độ. Anh cũng lặn lội đến các vùng trồng đàn hương lớn để tìm hiểu về cách chăm sóc loại cây này.

Là người tay ngang, chưa hề có kiến thức về nông nghiệp, nên thời gian đầu Ts. Vũ Thoại gặp rất nhiều khó khăn.

“Các tài liệu về đàn hương rất ít và hầu hết là các từ ngữ chuyên ngành. Để tìm hiểu đặc tính của cây, chủ yếu phải học hỏi qua kinh nghiệm thực tế của người dân và chuyên gia.

Tuy nhiên, ở Ấn Độ cây đàn hương được bảo vệ rất nghiêm ngặt, chúng được trồng trong các lồng bê tông cốt thép, cây lớn đến đâu thì hàng rào bê tông – cốt thép cao tới đó. Người dân ở đây cũng rất hạn chế chia sẻ thông tin với người lạ”, Ts Vũ Thoại kể.

Vị chuyên gia này nhớ lại, khoảng thời gian đó, anh phải nhờ tới sự giúp đỡ của đại sứ quán Việt Nam tại Ấn Độ, đồng thời liên hệ với các nhà khoa học làm cầu nối với những người trồng đàn hương. Nhiều năm trời, Ts Vũ Thoại dành thời gian ăn ở, sinh sống với người dân bản địa. Mỗi ngày, học hỏi được kiến thức nào mới, vị tiến sỹ trẻ đều cẩn thận ghi chép làm tài liệu tham khảo.

Năm 2012, Ts Vũ Thoại kết nối mời đoàn chuyên gia Ấn Độ về Việt Nam để nghiên cứu thổ nhưỡng, khí hậu – những vùng có tiềm năng phát triển loại cây quý này. Chuyến đi đầu tiên thành công hơn cả mong đợi khi tất cả các chuyên gia quốc tế đều chung nhận định, Việt Nam là đất nước rất thích hợp để trồng và phát triển đàn hương.

“Đàn hương là loại cây không khó tính, chúng thích hợp trồng ở vùng nhiệt đới, với nhiệt độ từ 15-38 độ C, khí hậu thổ nhưỡng Việt Nam rất phù hợp để phát triển loại cây quý này, đặc biệt là khu vực miền Trung – Tây Nguyên”, Ts. Vũ Thoại cho hay.

Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất theo vị tiến sỹ này là cây đàn hương rất khó nhân giống. Trong tự nhiên có khoảng 16 loại đàn hương khác nhau, tuy nhiên chỉ có đàn hương trắng của Ấn Độ là loài có giá trị kinh tế cao.

Tỷ lệ nảy mầm của hạt giống đàn hương rất thấp. Nếu dùng các loại hóa chất kích thích nảy mầm thông thường, cây sẽ bị ảnh hưởng lớn đến quá trình hình thành lõi, thậm chí không có lõi. Nếu nhân giống cây bố mẹ chưa đủ trưởng thành, cây rất dễ bị bệnh xoăn lá và phải chặt bỏ.

Ròng rã nghiên cứu nhiều năm trời, đến năm 2014, Ts Vũ Thoại và các đồng nghiệp mới thành công trong việc tạo ra phương pháp kích thích hạt cây đàn hương nảy mầm tự nhiên, tạo ra giống cây đạt chuẩn theo phương pháp hữu cơ.

Thời điểm đó, Ts Vũ Thoại đang là Hiệu trưởng một trường Cao đẳng Công lập ở Hà Nội. Để có thời gian nghiên cứu và phát triển đàn hương tại Việt Nam, anh đã quyết định nộp đơn, xin nghỉ việc, thành lập Viện nghiên cứu cây đàn hương và thực vật quý hiếm. Vị tiến sỹ trẻ cũng đầu tư hơn 10 tỷ đồng, thuê đất, mở trang trại rộng trên 10ha để nhân giống và trồng thí điểm loại cây quý hiếm này.

Quyết định này của Ts. Vũ Thoại khi ấy nhận phản ứng dữ dội của người thân và bạn bè. Nhiều người cho rằng, đàn hương là loài cây quý, có giá trị kinh tế cao song ở Việt Nam, loại cây này còn quá mới mẻ, vì thế rủi ro mang lại là rất lớn.

“Biết tôi có ý định tập trung mở rộng, phát triển đàn hương, nhiều chuyên gia nông nghiệp, bạn bè khuyên tôi từ bỏ, bởi trước đó rất nhiều người tâm huyết nhưng cũng không thành công.”, Ts Vũ Thoại kể.

Ngoài việc mở trang trại trồng đàn hương, Ts Vũ Thoại cũng chuyển giao công nghệ cho nông dân nhiều địa phương như Phú Yên, Đắk Lắk, Nghệ Tĩnh, Thanh Hóa…

Cho đến nay, cây đàn hương đã được trồng khảo nghiệm tại khoảng 43 tỉnh thành trên cả nước và bước đầu cho kết quả rất khả quan. Nhiều cây cho ra hoa và quả khi mới chỉ 18-28 tháng tuổi, lõi cây đàn hương thu được tại các vùng trồng thử nghiệm cũng được các chuyên gia nước ngoài đánh giá là đạt tiêu chuẩn.

“Để có thể khai thác gỗ đàn hương phải mất từ 12 – 15 năm, thậm chí 30 năm nếu muốn có gỗ đạt chuẩn tốt nhất. Nhưng ngay từ năm thứ tư, cây đã cho nguồn thu từ lá để làm trà cao cấp và hạt dùng để chiết xuất tinh dầu.

Ngoài ra, đàn hương là loài cây bán ký sinh, nên có thể trồng xen canh với các loại cây như: cam, quýt, mắc ca, cà phê, bơ… Trong khi đợi cây trưởng thành, người trồng vẫn có nguồn thu từ các loại cây khác, chính vì thế rủi ro của đàn hương rất thấp”, Ts Vũ Thoại nói.

Không chỉ kết hợp với nông dân mở rộng diện tích trồng đàn hương, Ts Vũ Thoại còn kết hợp với nhiều nhà khoa học, chuyên gia của Việt Nam nghiên cứu công nghệ sản xuất trà, kem dưỡng da, dược liệu… từ lá, chiết xuất tinh dầu của đàn hương. Năm 2019, những sản phẩm từ đàn hương đầu tiên của Việt Nam đã được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài như: Nhật Bản, Hàn Quốc…

“Hiện nay, giá bán lá đàn hương trên thị trường dao động từ 200-250 nghìn đồng/kg, 1kg tinh dầu của đàn hương có giá vào khoảng 3.000-4.500USD/kg.

Úc là nước có kim ngạch xuất khẩu gỗ đàn hương lớn nhất thế giới, khoảng 6,5-7 tỷ USD/năm với khoảng 800.000 ha đã được trồng. Trong một vài năm tới, nếu Việt Nam thành công trong việc phát triển những sản phẩm này, thì đây sẽ là hướng đi mới để phát triển kinh tế cho người nông dân” TS. Vũ Thoại chia sẻ.

Tuy được xem là loại cây "vàng ròng", song theo Ts Vũ Thoại đàn hương vẫn là loại cây mới, đang trong quá trình trồng thử nghiệm. Trước khi trồng, người dân cần tham khảo ý kiến của các chuyên gia về vùng trồng, mật độ trồng, cây trồng xen canh và phòng trừ sâu bệnh… Tuyệt đối không nên trồng một cách ồ ạt, theo phong trào.

“Cần có quy hoạch vùng cụ thể với số lượng diện tích được kiểm soát. Không nên chạy theo phong trào mà trồng một cách bừa bãi. Cây đàn hương có thể sử dựng được tất cả các bộ phận nên rất khó bảo vệ khi cây trưởng thành. Vì vậy nếu không có điều kiện chăm sóc và bảo vệ cây trên diện rộng, mỗi gia đình chỉ nên trồng 10 – 15 cây trong vườn nhà như của để dành”, Ts Vũ Thoại khuyến cáo.

Được đăng vào

Bài viết liên quan

Viết bình luận